Tìm hiểu về chất bảo quản Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản

Ethoxyquin là chất chống oxy hóa được sử dụng khá phổ biến để bảo quản thực phẩm: táo, ớt, các loại trái cay; thức ăn chăn nuôi; thức ăn thủy sản, …

– Thức ăn thủy sản do có hàm lượng chất béo cao và thành phần của chất béo chứa nhiều acid béo không no nên dễ bị oxy hóa trong quá trình chế biến và bảo quản. Khi bị oxy hóa, thức ăn sẽ có mùi ôi và mất đi các acid béo thiết yếu (W. A. Pryor, T. Strickland, D. F. Church, 1998), các Vitamin tan trong dầu như: A, D, E, carotenoids bị phá hủy làm giá trị dinh dưỡng của thức ăn bị giảm. Do đó, việc bổ sung chất chống oxy hóa trong thức ăn thủy sản là cần thiết. Chất chống oxy hóa phải đảm bảo dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, không độc đối với vật nuôi, người tiêu dùng và có giá thành rẻ. Các chất chống oxy hóa thường được sử dụng phổ biến là: BHT (Butylated hydroxyl toluene) với liều lượng là 200 ppm; BHA (Butylated hydroxyl Anisole) liều lượng 200 ppm; Ethoxyquin (1,2 dihydro – 6 ethoxy – 2,2,4 trymethyl quinoline) liều lượng là 150 ppm.

– Phát hiện vào thập niên 1950 bởi Monsanto, Ethoxyquin được sử dụng như một loại chống oxi hóa chất béo, chất bảo quản trong thức ăn chăn nuôi nhằm bảo vệ lipid và làm tăng tính ổn định các vitamin tan trong dầu, đặc biệt là Vitamin A và Caroten để đảm bảo chất lượng của thức ăn chăn nuôi (C. H. Van Peteghem, D. A. Dekeyser, 1981; A. J. Jackson, A. K. Kerr, C. B. Cowey, 1984). Ethoxyquin ngăn ngừa quá trình tự cháy của các thức ăn bảo quản trong kho do ức chế sự sản sinh nhiệt gây ra bởi quá trình oxy hóa lipid (A.A. Spark, 1982). Ethoxyquin có hoạt tính giúp các sản phẩm trái cây sau thu hoạch hạn chế quá trình mất mát hàm lượng carotenoid và vitamin E. Ngoài ra, Ethoxyquin còn được sử dụng với mục đích bảo quản màu trong sản xuất bột ớt, chất ổn định chống phân hủy trong sản xuất cao su; chống xuất hiện các đám màu nâu của táo và lê sau thu hoạch (D. S. Johnson, 1985; G. F. Ernst, S. Y. Verveld-Roder, 1979; B. Winnel, 1976; G. A. Perfetti, C. R. Warner, T. Fazio, 1981).

– Ethoxyquin được sử dụng phổ biến nhất là trong bột cá và dầu cá (A.A. Spark, 1982; .J.Koning, T.H.Mol, 1989), nó cũng được tìm thấy trong các loại dầu khác, mỡ và các loại bột thịt (L. Tamir, M. Prusikova, J. Pospisil, 1991). Như vậy, nếu sử dụng các nguyên liệu đã chứa ethoxyquin này để hỗn hợp thành thức ăn nuôi tôm cá thì trong thức ăn cho tôm cá sẽ chứa một lượng nhất định ethoxyquin đã có sẵn từ nguyên liệu; Nếu như trong quá trình sản xuất thức ăn mà các nhà sản xuất lại thêm ethoxyquin với mục đích chống oxy hóa lipid nữa thì hàm lượng ethoxiquin trong thức ăn có thể tăng lên vượt quá ngưỡng ethoxyquin cho phép sử dụng.

– Các chất chống oxy hóa nói chung và ethoxyquin nói riêng có vai trò quét các gốc tự do bắn phá tế bào, nhờ đó ngăn chặn được sự tổn hại của tế bào. Gốc tự do có thể gây những tổn hại sau: ung thư, bệnh tim mạch, đột quỵ, đục thủy tinh thể, thoái hóa hoàng điểm, suy giảm miễn dịch, lão hóa (Denham Harman, 1954). Chất chống oxy hóa là một phân tử có khả năng làm chậm hay ngăn ngừa sự oxy hóa những phân tử khác. Oxy hóa là phản ứng giữa một phân tử với oxy, hoặc bất cứ khi nào một phân tử mất một điện tử trong phản ứng hóa học. Những phản ứng oxy hóa có thể sản sinh các gốc tự do và khởi động những phản ứng liên hoàn gây tổn hại tế bào. Ethoxyquin ngăn chặn các phản ứng liên hoàn này bằng cách tách các gốc tự do và ức chế những phản ứng oxy hóa khác. Lipid là chất nhậy cảm nhất với sự tấn công của gốc tự do, đặc biệt các acid béo không no nhiều nối đôi (PUFA). Các PUFA khi bị gốc tự do tấn công thì hình thành các peroxide (quá trình peroxide hóa), chúng gây độc màng tế bào, cản trở sự hình thành và hoạt động của các enzyme bên trong tế bào. Chất chống oxy hóa làm giảm sự sản sinh gốc tự do làm giảm sự tấn công vào các PUFA có trong thức ăn nên ngăn chận sự hình thành các peroxide độc hại cho cơ thể.

– Một thí nghiệm của Knight et al. ( 2008) thực hiện trên gà thịt 0 – 21 ngày tuổi, cho ăn 4 khẩu phần: Khẩu phần 1 (KP1) chứa mỡ tươi không bổ sung ethoxyquin; Khẩu phần 2 (KP 2) chứa mỡ tươi bổ sung ethoxyquin (ethoxyquin dùng với liều 125 ppm); Khẩu phần 3 (KP 3) chứa mỡ ôi không bổ sung ethoxyquin; Khẩu phần 4 (KP 4) chứa mỡ ôi bổ sung ethoxyquin (ethoxyquin dùng với liều 125 ppm). Kết quả thí nghiệm cho thấy với các khẩu phần chứa mỡ tươi thì có bổ sung hoặc không bổ sung ethoxyquin vẫn cho kết quả tương tự về hàm lượng vitamin A dự trữ ở gan (sai khác không có ý nghĩa thống kê); nhưng đối với khẩu phần mỡ ôi, nếu không bổ sung ethoxyquin thì lượng vitamin A dự trữ ở gan chỉ bằng 69% so với khẩu phần có bổ sung ethoxiquin. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy, bổ sung ethoxyquin cũng làm tăng chiều dài của vi lông nhung cũng như tăng đường kính của hạch manh tràng, một hạch sản sinh tế bào kháng thể.

– Theo tạp chí Aquaculture Nutrition, Volume 15, số 2, trang 144–151, tháng 4/2009) một nghiên cứu về ảnh hưởng của ethoxyquin đến miễn dịch của cá rô phi (Oreochromis niloticus) đã cho thấy, khi cho cá rô phi ăn thức ăn có chứa 150mg/kg ethoxyquin (giới hạn cận trên cho phép của Luật an toàn thực phẩmchăn nuôiở Mỹ) thì nồng độ ethoxyquin trong máu đạt 0,16 mg/l. Nồng độ này gâyức chế hoạt động thực bào của các tế bào bạch cầu (invitro) và các hoạt động kháng khuẩn của máu (in vivo).

– Monsanto,một nhà sản xuất chính của ethoxyquin,qua nhiều nghiên cứu của ông và cộng sự đã khẳng định:”Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ethoxyquin dọn sạch các sản phẩm có hại của quá trình oxy hóa dẫn đến duy trì tính toàn vẹn của tế bào, làm giảm nguy cơ ung thư”.

– Ethoxyquin có độc tính thấp đến trung bình qua đường uống, da và qua đường hô hấp. Nó không có tác dụng kích thích mắt và không làm rát da. Các thử nghiệm trên động vật cho thấy nó kém nhạy cảm, đối với người tiếp xúc thường xuyên với hóa chất này cho thấy viêm da sẽ không còn khi ngưng làm việc trong môi trường ethoxyquin. Các bộ phận chủ yếu bị ảnh hưởng bởi ethoxyquin trong động vật thí nghiệm là gan và thận, và các nghiên cứu chỉ ra rằng ethoxyquin không gây quái thai hay độc tố tích lũy ở chuột cống và thỏ. Có rất thấp mối quan hệ trước và sau khi sinh do tiếp xúc với ethoxyquin. Hiện nay chưa có bằng chứng cụ thể nào được ghi nhận trên thế giới về khả năng gây ung thư của Ethoxyquin.

– Tóm lại, Ethoxyquin là một chất chống oxy hóa được FDA (America Food and Drug Administration) chấp thuận và đã cho phép được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi hơn 30 năm qua. Nó được sử dụng để ngăn chặn oxy hóa và bị ôi chất béo để duy trì tính lành và chất lượng trong thức ăn vật nuôi. Nó làm giảm đáng kể mức độ của BHA và BHT (cũng là chất chống oxy hóa) cần thiết để bảo quản. Một bài báotrong tạp chí Sức khỏe vật nuôi, Vol.6, số 9, tháng 11/1988,intại trường đại học Thú y thuộc Đại họcCornell, đã khẳng địnhhọkhông nhận được bất cứ bằng chứng nào cho rằng ethoxyquin là một chất gây ung thư. “Cần lưu ý rằng nhiều chất dinh dưỡng trong thức ăn là có lợi khi ở mức thấp nhưng có hại khi vượt quá”. Điều này là đúng đối với các chất dinh dưỡng thiết yếu bổ sung vào thức ăn như vitamin A,D, i-ốt… Không có bất kỳ nhà dinh dưỡng nào khuyên bạn nên loại bỏ hoàn toàn vitamin A ở khẩu phần ăn bởi vì nồng độ vitamin A cao là độc hại.Cũng có thể nói tương tự đối với các chất bảo quản như ethoxyquin khi được sử dụng với số lượng phù hợp để ngăn chặn ôi thiu thì nó là thành phần có giá trị và quan trọng trong khẩu phần ăn của vật nuôi.

Tìm hiểu về chất bảo quản Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản, Nguồn: Ts. Ngô Hữu Toàn – ĐH Nông Lâm Huế (Uv-vietnam.com.vn).

You may also like...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *