Những vấn đề thủy lợi ở đồng bằng sông cửu long hiện nay (Phần 2)

Những vấn đề do hệ thống thủy lợi hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) phát sinh có liên quan đến nhiều phương diện. Bài viết này chỉ chú trọng đến phương diện thủy học và môi trường, vì đây là hai phương diện quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn lao đến các phương diện khác, chẳng hạn như nông ngư nghiệp và xã hội.

– Về phương diện thủy học, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL đã làm thay đổi cơ chế thủy học (flow regime) tự nhiên của ÐBSCL, mà hậu quả là:
+ Thay đổi tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL.
+ Gia tăng mức độ sạt lở và bồi lắng ở lòng lạch và cửa sông, và có khả năng ảnh hưởng đến việc xói mòn của bán đảo Cà Mau.
+ Giúp cho nước mặn xâm nhập vào đất liền xa hơn, lâu hơn, và cao hơn.

– Về phương diện môi trường, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL:
+ Làm nhiều vùng ở hạ nguồn bị nhiễm nước phèn (acid water) nhiều hơn, nhất là ở cuối ÐTM.
+ Là một trong những tác nhân làm suy thoái phẩm chất nước ở ÐBSCL.
+ Góp phần không nhỏ trong việc xâm lấn vào những vùng sinh thái tự nhiên còn lại trong vùng ÐTM và TGLX và có thể làm cho chúng suy thoái trong tương lai.

1. Thay đổi tình trạng lũ lụt
– Nói một cách chính xác, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL được xây dựng từ năm 1705 khi ông Nguyễn Cửu Vân đào Bảo Ðịnh Hà tức rạch Bảo Ðịnh nối liền sông Tiền tại Mỹ Tho với sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) tại Tân An. Nhưng mãi đến 1975, hệ thống này dường như không có ảnh hưởng đáng kể đến đường thoát lũ thiên nhiên ở ÐBSCL. Nước trong sông Mekong vẫn có thể tràn bờ rồi làm ngập một vùng rộng lớn ở hạ lưu Kratie khi lưu lượng trong sông tăng cao. Nước lũ có thể chảy tràn qua biên giới Việt Miên, chảy tràn qua các giồng cao dọc theo sông Tiền và Hậu, hoặc theo các mương rạch tự nhiên để vào ÐTM và TGLX và làm ngập hai vùng trũng này. Từ đây, nước lũ có thể chảy trở lại sông Tiền và Hậu ở hạ lưu, hoặc đổ ra sông Vàm Cỏ Tây hoặc vịnh Thái Lan.

he thong kinh dao truoc nam cu

– Hệ thống kinh đào hiện nay ở ÐBSCL; sâu hơn, rộng hơn, và dày đặc hơn so với hệ thống kinh đào trước năm 1975; đã tạo thành những lòng lạch thuận lợi khiến cho nước lũ từ Kampuchia và sông Tiền và Hậu chảy vào ÐTM và TGLX sớm hơn, nhiều hơn, và nhanh hơn. Ở thượng nguồn, hệ thống đê đập làm giảm diện tích của đường thoát lũ khiến mực nước lụt dâng cao hơn. Ở hạ nguồn, lượng nước lũ này đã bị hệ thống đường giao thông được nâng cao hoặc hệ thống đê đập cống ngăn mặn ngăn chận khiến cho mực nước lụt ở ÐBSCL sâu hơn và thời gian ngập lụt kéo dài hơn trước. Những ảnh hưởng này đã được kiểm chứng.

– Theo dữ kiện đo đạc của PVKSQHTLNB, sự gia tăng lưu lượng qua biên giới Việt Miên – từ
6.300 m3/sec trong trận lụt 1991 – 8.270 3/sec trong trận lụt 1996, so với 2.930 m3/sec trong trận lụt 1961 – là do các kinh cấp I và II nối từ rạch Cái Cỏ – Long Khốt vào ÐTM. Thời gian truyền lũ từ Tân Châu đến Mộc Hóa, thường mất từ 15 – 17 ngày trong thập niên 1970, chỉ còn khoảng 3 – 5 ngày trong thập niên 1990. Trong trận lụt 2000, mực nước lụt nội đồng trong vùng ÐTM và TGLX cao hơn mực nước cao nhất các năm 1978 và 1996 từ 20 – 50 cm.

he thong song ngoi viet nam

– Nhưng những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL vẫn khẳng định rằng, sở dĩ có những ảnh hưởng tiêu cực như nhận thấy trong thời gian qua là vì hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL chưa được hoàn chỉnh nên chưa phát huy hết tác dụng của nó. Họ dự trù nâng cao trình cho đập Trà Sư từ cao độ +3,8 m như hiện nay lên cao độ +4,2 hoặc +4,5 m; nâng cao trình các quốc lộ 62, 30, 91 và hệ thống đê bao cao hơn mực nước lụt năm 2000. Họ dự trù nạo vét các kinh hiện có như Hồng Ngự và 79 cho sâu hơn và rộng hơn để thoát nước lũ. Và họ dự trù xây một con đê dọc theo bờ phía Nam của kinh Tân Thành – Lò Gạch có cao độ từ +5,5 đến +6,5 m để ngăn chận nước lũ tràn qua biên giới Việt Miên. Những thay đổi này không những không có tác dụng tích cực, mà ngược lại, làm cho tình hình lũ lụt ở ÐBSCL ngày càng thêm nghiêm trọng. Thí dụ như trong mùa nước nổi 2005, mặc dù mực nước lũ cao nhất trong sông Tiền và Hậu chỉ đạt mức 4,35 m ở Tân Châu và 3,86 m ở Châu Ðốc (thấp hơn mực nước lũ cao nhất 4,82 m ở Tân Châu và 4,42 m ở Châu Ðốc trong trận lụt năm 2002), mực nước lụt trong vùng ÐTM đã tăng nhanh hơn và vượt quá mực nước cao nhất trong năm 2002.

ngap lut o dong bang song cuu long

– Một sự kiện thủy học nổi bật được quan sát lần đầu tiên trong lịch sử, đó là, trong 23 trạm của hệ thống đo đạc thủy học ở hạ lưu vực sông Mekong, do Ủy hội sông Mekong điều hành, chỉ có 5 trạm có mực nước vượt quá mức báo động do Ủy hội ấn định trong năm 2005. Ðó là các trạm Thakhek và Pakse ở Lào, Mukdahan ở Thái Lan, và Tân Châu và Châu Ðốc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sông Mekong vượt quá mức báo động chỉ có 5 ngày ở Thakhek, 7 ngày ở Pakse, và 9 ngày ở Mukdahan, nhưng kéo dài đến 30 ngày ở Tân Châu và 60 ngày ở Châu Ðốc.

– Có nhiều nguồn dư luận Việt Nam và quốc tế cho rằng các đập thủy điện đã và đang được xây dựng trên sông Mekong ở Trung Hoa có ảnh hưởng đến tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL, nhưng có nhiều lý do để có thể kết luận rằng các nguồn dư luận đó chỉ là những suy luận mang nhiều cảm tính và không có cơ sở khoa học. Trước hết, lưu lượng phát xuất từ Trung Hoa chỉ chiếm khoảng 15 – 25 % lưu lượng lũ của sông Mekong ở Kratie. Thứ hai, ảnh hưởng của đập thủy điện đối với tình hình lũ lụt chỉ đáng kể ở vùng hạ lưu sát chân đập. Càng xa về hạ lưu, ảnh hưởng sẽ giảm dần và đến lúc nào đó thì không còn đáng kể. Nếu dựa theo dữ kiện thủy học được đo đạc trước và sau khi xây dựng các đập thủy điện, thì ảnh hưởng thủy học của chúng được quan sát ở trạm Chiang Saen ở Thái Lan, là trạm cực bắc của hệ thống đo đạc thủy học ở hạ lưu vực sông Mekong. Nhưng ảnh hưởng tương tự thì chưa quan sát được ở trạm Tân Châu và Châu Ðốc.

dap thuy dien manwan trung quoc

– Trên phương diện thủy học, do điều kiện khí hậu và địa hình, lượng mưa trong vùng trung lưu vực sông Mekong chạy dọc theo triền phía Tây dãy Trường Sơn có ảnh hưởng quan trọng nhất đến tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL. Trung bình, vùng này đóng góp khoảng 60 – 75 % lưu lượng lũ của sông Mekong tại Kratie, trong số đó khoảng 20 – 30 % từ lưu vực sông Sre Pok ở hạ Lào, cao nguyên miền Trung Việt Nam, và vùng đông bắc Kampuchia. Thí dụ như trận lụt lịch sử năm 2000 là do lượng mưa rất cao trong vùng này gây nên. Kế tiếp, bất cứ một dự án thủy lợi nào làm thay đổi lưu lượng phát xuất từ vùng này đều có khả năng thay đổi tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL. Thí dụ như việc xả lũ từ đập thủy điện Yali ở Việt Nam vào đầu tháng 8 năm 2005. Việc xả lũ này đã gây lũ lụt ở hạ lưu sông Sesan trong tỉnh Ratanakiri của Kampuchia và có lẽ đã làm mực nước ở nội đồng ÐTM đang tăng nhanh lại càng tăng nhanh hơn vào trung tuần tháng 8.

2. Gia tăng mức độ sạt lở và bồi lắng trong lòng lạch và cửa sông
– Một ảnh hưởng tiêu cực khác của hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL, cũng gây tai hại có lẽ không kém sự thay đổi tình trạng lũ lụt, là tình trạng sạt lở và bồi lắng. Tình trạng này không những xảy ra trong sông rạch tự nhiên và kinh đào lớn nhỏ, kể cả sông Tiền và sông Hậu, mà nó còn có ảnh hưởng đến việc bồi đấp bờ biển ở phía Nam cửa sông Cửu Long, và có thể có ảnh hưởng đến sự an nguy của bán đảo Cà Mau trong tương lai.

sat lo o dong bang song cuu long

– Tình trạng sạt lở và bồi lắng đã và đang diễn ra ở một mức độ chưa từng thấy ở khắp nơi trong ÐBSCL. Sạt lở diễn ra liên tục trong mùa lũ lẫn mùa cạn, từ thượng nguồn đến hạ nguồn sông Tiền và sông Hậu, trong các sông rạch nội đồng, và ngay cả vùng ven biển. Thí dụ như ở tỉnh Ðồng Tháp, có 89 khu vực sạt lở thuộc 42 xã, phường, thị trấn ven sông Tiền và Hậu với chiều dài khoảng 162 km, mà nghiêm trọng nhất là ở thị xã Sa Ðéc. Ở tỉnh An Giang, có khoảng 50 điểm sạt lở mà nghiêm trọng nhất là thị trấn Tân Châu và xã Mỹ Hòa Hưng thuộc thành phố Long Xuyên. Ở tỉnh Vĩnh Long, có 56 điểm sạt lở bờ sông Hậu, Cổ Chiên, và Măng Thít với chiều dài khoảng 80 km. Tỉnh Cần Thơ có 14 điểm sạt lở. Tỉnh Hậu Giang có 3 điểm sạt lở lớn ở Ngả Sáu, Ngả Bảy, và kinh Xà No. Tỉnh Bến Tre có 2 điểm sạt lở ở sông Giao Hòa (An Hóa), huyện Châu Thành và sông Hàm Luông ở huyện Giồng Trôm. Ở tỉnh Bạc Liêu, mỗi năm có hàng chục vụ sạt lở dọc theo sông Gành Hào ở huyện Ðông Hải và Giá Rai. Nhiều tuyến kinh ở Cà Mau cũng bị sạt lở nghiêm trọng trong 10 năm qua. Rạch Bảo Ðịnh ở thành phố Mỹ Tho cũng bị sạt lở.

– Mức độ bồi lắng thì cũng không kém so với mức độ sạt lở. Một thí dụ điển hình là sự xuất hiện của những “cồn mới nổi” trong sông Tiền ở xã An Phong, Tân Bình và Tân Quới, tỉnh Ðồng Tháp và trong sông Hậu ở xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên. Tình trạng bồi lắng khiến cho sông Ba Lai, một nhánh của sông Tiền, đang cạn dần. “Ðoạn sông Hậu từ Ða Phước đến thị trấn An Phú một phần bị bồi lắng nên khô cạn nặng, lòng sông chỉ còn rộng hơn 10 m”. Mức độ nghiêm trọng của tình trạng bồi lắng được thể hiện qua việc bồi lắp cửa Ðịnh An, một trong những cửa sông Hậu chảy ra biển Ðông. Theo một nghiên cứu của Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, cửa Ðịnh An đang bị cát bồi lắp với một mức độ khủng khiếp khiến cho độ sâu ở đây chỉ còn khoảng 3 mét và không ổn định.

– Theo khoa học sông ngòi, một dòng sông chỉ ổn định khi cơ chế và tình trạng thủy học của nó cân bằng với tình trạng địa chất ở nơi mà nó chảy qua. Khi sự cân bằng này mất đi, dòng sông sẽ tự điều chỉnh để lập lại sự cân bằng đã mất qua hiện tượng sạt lở, bồi lắng, hoặc mãnh liệt hơn là di chuyển lòng lạch. Sạt lở xảy ra khi bờ hoặc đáy sông mất cân bằng do dòng chảy trong sông đổi hướng hoặc gia tăng vận tốc. Khi vận tốc dòng chảy giảm đi, phù sa sẽ lắng xuống gây bồi lắng. Hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL đã làm cho cơ chế và tình trạng thủy học của sông Mekong mất cân bằng, không những trong lãnh thổ Việt Nam mà cả trong lãnh thổ Kampuchia, nhất là vùng dọc theo biên giới Việt-Miên. Ở thượng nguồn, hệ thống đê đập ngăn lũ không cho nước lũ chảy tràn qua biên giới mà tập trung vào sông rạch làm cho chiều sâu và vận tốc dòng chảy gia tăng. Ở hạ nguồn, việc lấy nước canh tác cùng với hệ thống đê đập ngăn mặn và đê biển làm giảm vận tốc dòng chảy, mà có nhiều nơi, nước không còn luân lưu được nữa.

cong dap ba lai ben tre

– Cống đập Ba Lai ở tỉnh Bến Tre là một thí dụ điển hình, vì công trình này là 1 trong 9 công trình của dự án đại thủy nông có tên là Dự án Ngọt hóa Bắc Bến Tre, với kinh phí lên đến 1.230 tỉ đồng (khoảng 92 triệu Mỹ kim). Cống được khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 30 tháng 4 năm 2002. Từ đó đến nay, vì cửa sông Ba Lai bị cống bít kín, nước sông Ba Lai dồn vào sông Giao Hòa để chảy qua sông Mỹ Tho; do đó, nước chảy rất xiết và làm cho hai bờ sông đều bị sạt lở. Cống Ba Lai có lẽ cũng là nguyên nhân chính khiến cho cồn Bà Ðáng ở huyện Châu Thành đang chìm xuống sông Ba Lai. Ngày trước, cồn có diện tích khoảng 300 ha được dự trù xây dựng điểm du lịch sinh thái, nay chỉ còn vài chục mét vuông. Cũng cần nói thêm là, ngoài ảnh hưởng tiêu cực về mặt thủy học, cống Ba Lai còn có những ảnh hưởng tiêu cực khác, chẳng hạn như về mặt môi trường, nông ngư nghiệp, và xã hội.

– Các cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm quy hoạch thủy lợi ở Việt Nam đã nhận thấy ảnh hưởng tai hại của hệ thống thủy lợi đối với tình trạng sạt lở và bồi lắng ở ÐBSCL, nhưng họ không muốn hoặc không dám khẳng định trực tiếp và rõ ràng. Thí dụ như Phó giáo sư – Tiến sĩ (PGS-TS) Lê Minh Hùng, Viện Khoa học Thủy lợi thì cho rằng “…tình trạng xói lở bờ sông, lòng sông có nhiều nguyên nhân; trong đó nổi cộm là sự tác động trực tiếp từ con người”. Giáo sư Tiến sĩ (GS-TS) Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Ðại học An Giang cũng nói rằng: “Ngày nay, do tác động của con người, dòng chảy biến đổi nhanh, tình trạng sạt lở càng phức tạp”. Kỹ sư (KS) Huỳnh Thế Năng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NNPTNT) An Giang thì trực tiếp và rõ ràng hơn một chút, khi ông nhận xét như sau: “Ðến nay, việc quy hoạch khai thác cát, nuôi trồng thủy sản và hệ thống kênh thoát lũ ở ÐBSCL đang diễn ra một cách tự phát, manh mún và bất hợp pháp làm ảnh hưởng bờ, gây xói lở vách sông. Khắc phục và điều chỉnh việc này vượt quá khả năng của từng địa phương. Vì vậy, rất cần Bộ NNPTNT tiến hành ngay đề tài nghiên cứu chuyên sâu, giúp các địa phương có cơ sở khoa học để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại và khai thác lợi thế dòng sông, theo định hướng phát triển bền vững cả về môi trường và xã hội”.

– Một vài biện pháp cục bộ được đưa ra ở một vài địa phương, nhưng những biện pháp này cũng không có hiệu quả, mặc dù rất tốn kém. Thí dụ như việc lún sụt bờ kè dài 338 m ở thị trấn Tràm Chim, Tam Nông. Bờ kè dài 612 m với trị giá khoảng 120 tỉ đồng được xây dựng để bảo vệ thị trấn Tân Châu, nhưng thị trấn này đang có nguy cơ chìm xuống sông Tiền. Gần đây hơn, bờ kè ở Cà Mau cũng bị chìm xuống sông vì sạt lở. Bờ kè ở khu vực Tỉnh ủy An Giang ờ thành phố Long Xuyên cũng đang bị sạt lở uy hiếp. Còn những biện pháp tổng thể cho toàn vùng ÐBSCL, cũng theo lời KS. Huỳnh Thế Năng, Giám đốc Sở NNPTNT An Giang, thì chưa được nghiên cứu.

– Về lâu về dài, hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL có thể có ảnh hưởng đến việc bồi đấp bờ biển ở phía Nam cửa sông Cửu Long, và có thể có ảnh hưởng đến sự an nguy của bán đảo Cà Mau trong tương lai. Như chúng ta đã biết, vùng ÐBSCL hình thành do phù sa của sông Cửu Long bồi đấp, và hiện tượng này vẫn đang tiếp diễn. Ngày trước, phù sa trong nước lũ chảy tràn lắng đọng đồng đều ở nội đồng trong vùng ÐTM và TGLX. Sự bồi lắng này tương đương với mức lún do nền đất phù sa nén lại, nên ÐBSCL vẫn duy trì được cao độ. Hệ thống thủy lợi hiện nay ngăn chận phần lớn lượng nước lũ chảy tràn; do đó, vùng nội đồng không còn được bồi đắp như trước, mặt đất sẽ mất dần cao độ và toàn thể ÐBSCL có nguy cơ tụt thấp hơn mặt nước biển.

– Phù sa trong nước lũ cũng được sông Tiền và Hậu mang ra biển Ðông. Với một vận tốc cân bằng với dòng nước biển ven bờ, lượng phù sa này lắng đọng ven bờ khiến bán đảo Cà Mau lấn ra biển hàng trăm mét mỗi năm. Hệ thống thủy lợi hiện nay không những làm giảm lượng phù sa mà còn làm tăng vận tốc dòng chảy trong sông Tiền và sông Hậu. Hậu quả là lượng phù sa đã ít lại bị đẩy ra xa ngoài biển Ðông nên không thể bồi đắp bán đảo Cà Mau như trước.

3. Gia tăng sự xâm nhập của nước mặn
– Sự xâm nhập của nước mặn trong sông ngòi là một hiện tượng tự nhiên do sự khác biệt về tỉ trọng giữa nước ngọt và nước mặn. Hiện tượng này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như lưu lượng và thời lượng của nước sông, cao độ của đáy sông so với mặt nước biển, độ dốc của lòng sông, biên độ thủy triều, vận tốc và chiều gió, và nhiệt độ của nước; trong đó, lưu lượng (discharge) và thời lượng (duration) của nước sông là yếu tố quyết định. ÐBSCL hội đủ các yếu tố thuận lợi này.

– Hệ thống thủy lợi hiện nay đã làm thay đổi cơ chế thủy học tự nhiên của ÐBSCL, nhất là lưu lượng và thời lượng của sông Tiền và sông Hậu, là hai yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự xâm nhập của nước mặn. Theo Kế hoạch Tổng thể ÐBSCL do NEDECO và RRIG soạn thảo, 45 dự án thủy nông do của PVKSQHTLNB cần 841 3/sec trong số 1.540 m3/sec lưu lượng kiệt của sông Cửu Long trong tháng 4. Việc lấy nước cho hệ thống thủy lợi này khiến lưu lượng của sông Tiền và sông Hậu bị giảm trong một thời gian dài, nhất là vào mùa khô, khiến hai con sông này không còn khối lượng nước ngọt thích hợp để đẩy lùi hoặc ngăn chận sự xâm nhập của nước biển. Ở hạ nguồn và ven biển, hệ thống đê đập ngăn mặn khiến cho nước biển không thể chảy tràn vào những vùng đất ngập mặn mà chỉ tập trung trong lòng sông, khiến cho nước biển xâm nhập vào đất liền nhanh hơn và xa hơn vì vận tốc cao hơn. Ở một vài nơi, thí dụ như trong vùng TGLX, hệ thống kinh mương thoát lũ ra vịnh Thái Lan đã trở thành những lòng lạch cho nước mặn xâm nhập vào mùa khô.

– Tiêu chuẩn thông dụng dùng để so sánh phạm vi và mức độ xâm nhập của nước mặn là độ mặn. Ðộ mặn là nồng độ của muối ở trong nước, có đơn vị thông thường là gram trên lít (g/l). Nước biển có độ mặn trên 30 g/l, nước sông có độ mặn dưới 1 g/l. Ðộ mặn 4 g/l thường dùng để ấn định ranh giới mặn, nhưng cây trồng sẽ chết nếu độ mặn cao hơn 1 g/l. Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, độ mặn trong nước gia dụng không được quá 0,25 g/l.

– Theo tin tức báo chí trong nước thì tình trạng xâm nhập của nước mặn càng ngày càng nghiêm trọng và tràn lan, không những trong sông rạch mà còn ở trong hệ thống kinh thủy lợi nội đồng. Trong mùa khô 2005 vừa qua, độ mặn tại các trạm quan trắc đã vượt mức kỷ lục với 15,5 g/lít trong sông Vàm Cỏ Ðông, 15,2 g/lít trong sông Vàm Cỏ Tây, và từ 10,8 đến 11,0 g/lít trong sông Tiền và sông Hậu. Ranh giới mặn, tức độ mặn 4,0 g/l, càng ngày càng tiến sâu vào đất liền. Theo một nghiên cứu của Phân viện Khí tượng thủy văn, ranh giới mặn tiến sâu vào đất liền từ 26 – 43 km trong khoảng thời gian từ năm 1977 – 1982. Nó tiến sâu vào đất liền đến 50 km trong năm 1995 và 70 km trong năm 1999. Riêng trong năm 2005, nó tiến vào đất liền từ 80 đến 120 km, và có nơi lên đến 140 km. Sự xâm nhập của nước mặn khiến cho độ mặn trong sông vượt quá tiêu chuẩn nước uống, thí dụ như 1,8 g/l ở thành phố Mỹ Tho và 3,0 g/l ở thị xã Bến Tre, khiến cho các nhà máy nước ở đây phải ngưng hoặc hạn chế hoạt động. Nguồn nước gia dụng của thành phố Cần Thơ cũng đang bị đe dọa, vì độ mặn 1 g/l trong sông Hậu chỉ còn cách thành phố này có 8 km.

– Các cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch thủy lợi ở ÐBSCL cho rằng, sở dĩ nước mặn có thể xâm nhập sâu vào đất liền là vì một số công trình chưa hoàn chỉnh nên nó chưa phát huy tác dụng đúng mức. Còn các công trình đã hoàn chỉnh và đã phát huy tác dụng thì, “… trước đại họa ngập mặn quá lớn, những công trình này tựa như… muối bỏ biển, không thấm vào đâu”. Nói một cách ngắn gọn, họ cho rằng, lý do của sự xâm nhập nước mặn ngày càng gia tăng ở ÐBSCL là do các công trình ngăn mặn hoặc chưa được xây xong hoặc chưa được xây đúng mức.

doi nuoc ngot kien giang

– Nhưng các công trình ngăn mặn hiện nay cũng như các công trình ngăn mặn trong tương lai, cho dù có được hoàn chỉnh đến đâu, sẽ không có khả năng ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào ÐBSCL; trừ trường hợp bít kín tất cả các cửa sông rạch ăn thông ra biển. Một thí dụ điển hình là hệ thống cống đập Ba Lai ở Bến Tre. Các giới chức có trách nhiệm cho rằng, vì âu thuyền dự trù xây trên sông Giao Hòa chưa được thực hiện, nên nước mặn mới theo sông này rồi xâm nhập ngược vào cái rốn của dự án ngọt hóa Bắc Bến Tre. Nhưng nếu tất cả các công trình của dự án ngọt hóa này được xây dựng, nước mặn vẫn có thể xâm nhập từ sông Hàm Luông hoặc từ đầu nguồn sông Ba Lai, vì nước mặn đã xâm nhập khỏi hợp lưu của sông Tiền và sông Ba Lai. “Dự án ngọt hóa đảo Gò Công (Tiền Giang) được đánh giá là chương trình có hiệu quả nhất… Thế nhưng, tình trạng thiếu nước sinh hoạt, tái nhiễm phèn mặn đang diễn ra trên vùng ngọt hóa Gò Công”.

– Ðể đối phó với tình trạng xâm nhập của nước mặn ở ÐBSCL càng ngày càng gia tăng, PVKSQHTLNB cho biết, ngoài chiến lược chung trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước ở các nước hạ lưu vực sông Mekong, ÐBSCL cần thực hiện 5 giải pháp cơ bản và cần có giải pháp linh động thích hợp cho năm nước mặn lên cao:
+ Hoàn chỉnh hệ thống đê bao ngăn mặn ven biển và dọc theo sông.
+ Xây dựng thêm cống ngăn mặn đối với vùng sản xuất nông nghiệp.
+ Tăng khả năng cung cấp nước ngọt cho vùng mặn.
+ Bố trí thời vụ để giảm lượng nước tưới trong mùa khô.
+ Đẩy nhanh việc xây dựng công trình thoát lũ cho việc chuyển thời vụ.

le ky ket chuong trinh du an mekong

– Khi đề cập đến chiến lược chung trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước ở các nước hạ lưu vực sông Mekong, có lẽ PVKSQHTLNB muốn nói đến Chương trình Sử dụng Nước (Water Utilization Programme) của Ủy hội sông Mekong. Nếu đúng như thế thì không biết đến bao giờ chiến lược chung này mới được áp dụng, vì việc soạn thảo Chương trình Sử dụng Nước chỉ mới bắt đầu sau khi các quốc gia thành viên ký kết một thỏa thuận về phương thức soạn thảo (Agreement on the procedures governing the maintenance of flows in the Mekong mainstream) tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 22 tháng 6 năm 2006. Và khi chiến lược chung được áp dụng, Việt Nam có lẽ sẽ được bảo đảm một lưu lượng tối thiểu nào đó khi sông Mekong chảy vào ÐBSCL, tương tự như lưu lượng tối thiểu của sông Colorado chảy vào Mexico được ghi trong hiệp ước mà nước này ký kết với Hoa Kỳ năm 1944. Thế nhưng, vùng đồng bằng sông Colorado nằm trong lãnh thổ Mexico càng ngày càng suy thoái, lý do là vì Mexico đã dùng hầu hết lượng nước này để phát triển nông nghiệp. Do đó, Việt Nam cần cứu xét một cách cẩn trọng bài học sông Colorado của Mexico.

– Ngoại trừ giải pháp bố trí lại thời vụ để giảm nhu cầu nước tưới trong mùa khô, 5 giải pháp căn cơ của PVKSQHTLNB không có khả năng ngăn chận có hiệu quả sự xâm nhập của nước mặn ở ÐBSCL; bởi vì những giải pháp cơ bản này không cứu xét đến yếu tố thủy học căn bản của sự xâm nhập của nước mặn, đó là lưu lượng và thời lượng của nước sông. Nói cách khác, không có một giải pháp nào được đề nghị để duy trì một lưu lượng thích hợp trong sông Tiền và Hậu để có thể đẩy lùi nước mặn ra khỏi cửa sông; hay ít ra, cũng đủ để ngăn không cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền. Tệ hại hơn, việc hoàn chỉnh hệ thống đê ngăn mặn ven biển và ven sông, việc xây thêm cống ngăn mặn cho các vùng sản xuất nông nghiệp, và việc hoàn tất các kinh thoát lũ sẽ tạo điều kiện cho việc lấy thêm nước ngọt; do đó, lưu lượng trong sông Tiền và Hậu sẽ càng ít đi và sẽ làm cho nước mặn xâm nhập sâu hơn.

4. Gây ô nhiễm nguồn nước trong sông rạch và nội đồng
– Vào đầu tháng 1 năm 2006, báo chí trong nước loan tin cá bè trong sông Tiền và sông Hậu bị chết hàng loạt. Theo TS Lý Thị Thanh Loan, Giám đốc Trung tâm Quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực Nam Bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, cá chết một phần là do điều kiện môi trường bị ô nhiễm; vì kết quả khảo sát tại các khu vực có cá bè chết hàng loạt ở các tỉnh An Giang, Ðồng Tháp, và Tiền Giang cho thấy mức độ ô nhiễm cao hơn mọi năm và cao hơn kết quả khảo sát vào tháng 10 năm 2005. Các cơ quan chức năng ở Việt Nam thì cho rằng tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong sông Tiền và sông Hậu là vì:
+ Vào thời điểm lũ đang rút, nước có phẩm chất kém từ nội đồng đổ ra sông;
+ Ngư dân ở thượng nguồn thải cá chết ra sông khiến cho nguồn nước bị nhiễm mầm bệnh.

– Nhưng thật ra, nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm nguồn nước chính là việc xây dựng và điều hành hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL.

ca chet do nuoc bi o nhiem

– Sở dĩ có tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở ÐBSCL, nhất là trong nội đồng, là vì nước bị ứ đọng trong thời gian quá lâu và nhận quá nhiều chất thải. Vào đầu mùa lũ, nước lũ trong sông, qua hệ thống kinh thủy lợi, chảy vào các vùng trũng ở nội đồng rất sớm. Vì bị hệ thống đường giao thông hoặc đê đập cống ngăn mặn ở hạ nguồn ngăn chận, số nước lũ này không thể thoát nhanh ra biển; do đó, nó ứ đọng trong các vùng trũng một thời gian dài và chỉ chảy trở lại các sông rạch khi mực nước trong sông rạch xuống thấp hơn mực nước trong nội đồng; và dĩ nhiên, nó mang theo tất cả chất thải và hóa chất mà nó tiếp nhận trong thời gian ứ đọng. Ðó là chưa kể đến lượng nước thải bên trong các vùng có đê bao chung quanh. “Buổi sáng chạy xe một vòng suốt tuyến đê bao, cảnh tượng ô nhiễm khiến tôi kinh hoàng. Khắp nơi tràn ngập nước thải sinh hoạt, nước thải chăn nuôi bốc mùi nồng nặc. Những dòng nước thải đen ngòm, hôi hám lờ đờ chảy vào một con rạch đặc sệt, đầy bọt bèo từ từ hướng về trạm bơm nằm ở một góc khu đê bao. Từ đó dòng nước độc hại được dàn máy bơm trút thẳng vào kênh Sa Rài, chảy vào ruột Ðồng Tháp Mười. Ông Út Dũng, người vận hành máy bơm, kể rằng hễ trời mưa là máy bơm phải chạy, trễ chừng một giờ là cả 3 ấp, 32 con đường và hơn 2.000 căn nhà ở thị trấn sẽ chìm trong biển nước hôi thối. Ông Dũng cho biết: “Tui sợ nhất là máy bơm bị kẹt rác, phải nhảy xuống nước gỡ. Mỗi lần như vậy là tui muốn phát bệnh, da thịt ngứa ngái, lở lói.’ Tôi tự hỏi, khi bơm dòng nước hôi thối, độc hại kia vào kênh Sa Rài suốt 10 năm qua, không hiểu ông có bận tâm chút nào không?”.

– Theo kết quả nghiên cứu của Trường Ðại học An Giang có đề tài “Nghiên cứu tác động đê bao đến đời sống kinh tế – xã hội và môi trường tại một số khu vực có đê bao ở tỉnh An Giang,” một trong những tai hại nổi bật nhất của hệ thống đê bao là vấn đề ô nhiễm bên trong đê bao. Theo tài liệu của Sở Khoa học và công nghệ môi trường tỉnh An Giang, “… ngay từ năm 2001 ở huyện Chợ Mới đã xuất hiện tình trạng ô nhiễm trong đê bao. Chỉ riêng chỉ tiêu amoniac đã ô nhiễm cao gấp 10 lần tiêu chuẩn môi trường. Một số vi sinh, đạm, phốtpho tổng cũng ngày càng cao. Tình trạng này có thể gây nên hiện tượng phú dưỡng, bùng nổ sự phát triển tảo, làm nước bị thối, giảm chất lượng nước sinh hoạt và tác động tiêu cực đời sống thủy sinh, chưa kể sự suy thoái chất lượng đất…”.

– Nghiên cứu của Trường Ðại học An Giang không đề cập đến những giải pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm bên trong đê bao, nhưng theo ông Dương Văn Nhã, người phụ trách việc nghiên cứu, thì tất cả 13 nhà khoa học trưởng đầu ngành trong lãnh vực thổ nhưỡng, thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt, và kinh tế mà ông tham vấn đều cho rằng hệ thống đê bao triệt để có hại nhiều hơn lợi và hoàn toàn không ủng hộ. Nhưng họ lại ủng hộ đê bao tháng 8 ở những vùng sâu trong nội đồng, nơi không thể phát triển được rau màu hay vườn cây ăn trái. Ðây là hệ thống đê bao mà sau khi thu hoạch xong lúa hè-thu vào tháng 8, đê bị phá vỡ để nước lũ tràn vào đồng. Thế nhưng, ô nhiễm bên trong đê bao tháng 8 cũng không khác mấy với đê bao triệt để, ngoại trừ toàn bộ hệ thống đê phải được san bằng. Hơn thế nữa, nếu theo khuyến cáo của 13 nhà khoa học Việt Nam tham gia việc nghiên cứu, hệ thống đê bao tháng 8 có lẽ không có tính khả thi và không có hiệu quả kinh tế vì chi phí xây dựng và điều hành sẽ rất cao, vì phải xây rồi phá hàng năm mà chỉ bảo vệ được một vụ lúa mà thôi.

– Trong mùa khô, khi hệ thống đê đập ngăn mặn ở hạ nguồn được đóng để ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào vùng canh tác, thì tình trạng ô nhiễm tương tự như tình trạng ô nhiễm bên trong đê bao lại xảy ra và có thể kéo dài nhiều tháng. Sự khác biệt là mức độ và ảnh hưởng tai hại của nó vì:
+ Nồng độ các chất ô nhiễm cao hơn vì nước càng ngày càng cạn kiệt;
+ Nhiệt độ cao khiến cho chất thải hữu cơ phân hủy nhanh hơn và gây hôi thối;
+ Gây bệnh cấp tính cho người sử dụng, nhất là bệnh ngoài da và tiêu hóa, vì người dân trong vùng không có nguồn nước nào khác ngoài nguồn nước ô nhiễm này.

– Ngoài ra, ở nhiều nơi, tình trạng ô nhiễm có thể nghiêm trọng hơn nếu nguồn nước trong hệ thống kinh thủy lợi nhận nước phèn khi chảy qua vùng đất phèn ở thượng nguồn.

– Người dân ÐBSCL gọi nước có độ acid cao, tức có pH thấp, là nước phèn vì nó có vị chua. Acid trong nước phèn là sulphuric acid, được tạo thành khi đất phèn (pyrite (FeS2)) tiếp xúc với không khí. Ðây là một hiện tượng tự nhiên ở ÐBSCL thường thấy trong những năm hạn hán vì đồng bằng này có đến 1,6 triệu ha đất phèn, nhất là ở ÐTM và TGLX. Việc xây dựng hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL, nhất là hệ thống kinh và đê bao ở ÐTM và TGLX, đã thúc đẩy hiện tượng xì phèn vì nó hạ thấp mực nước và giúp cho đất phèn tiếp xúc với không khí qua lòng kinh, bờ kinh, bờ và mặt đê, và liếp trồng hoa màu. Theo dữ kiện của Trung tâm chất lượng nước và môi trường thuộc PVKSQHTLNB, trong khoảng 1985 – 1997, pH tại nhiều trạm quan trắc ở vùng ÐTM và TGLX có thể xuống dưới 3,0, nhất là vào mùa khô ở hạ nguồn. Nhưng theo tài liệu của Viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh được ấn hành năm 1999, pH có thể xuống đến 2,5 trong những năm có lụt nhỏ, và đặc biệt trong vụ hè-thu 1995, pH của nước trong đồng ruộng chỉ còn 1,0.

– Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, nước gia dụng phải có pH trong khoảng 6,5 – 8,5; so với giấm ăn có pH khoảng 3,0 và nước chanh nguyên chất có pH khoảng 2,4. Nước có pH thấp không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, nhưng không thể sử dụng nếu pH quá thấp. Trái lại, nhiều loại cây cối và sinh vật sống trong nước rất nhạy cảm với pH của nước. Hầu hết rau cải bị ảnh hưởng nếu nước có pH thấp hơn 6,0. Lúa chỉ thích hợp với nước có pH từ 6,5 – 7,5. Nghêu sò bắt đầu chết khi pH của nước xuống 6,0. Trứng cá không thể nở khi pH của nước đạt 5,0, và sinh vật không thể sống nếu pH của nước thấp hơn 4,5.

– Ngoài những ảnh hưởng vừa kể trên, hệ thống kinh thủy lợi ở ÐBSCL còn là những lòng lạch thuận lợi giúp cho tình trạng ô nhiễm lan tràn ra khắp nơi, tương tự như việc lan truyền nước lũ ở thượng nguồn và nước mặn ở hạ nguồn. Thí dụ như nước thải của Nhà máy Ðường Trà Vinh đã gây ô nhiễm cho kinh T9, N10, Mù U và sông Trà Cú. Nước thải của Nhà máy Ðường Vị Thanh xả trực tiếp xuống kinh Rạch Gốc gây ô nhiễm cho kinh xáng Xà No. Nguồn nước ô nhiễm trong rạch Ô Môn đã theo hệ thống kinh thủy lợi tràn vào nội đồng và gây ô nhiễm một vùng rộng lớn trong tỉnh Cần Thơ và Hậu Giang. Gần đây hơn, tuyến kinh Thần Nông của dự án kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao trở thành tuyến kinh tải nước ô nhiễm từ đầu nguồn ở huyện Tân Châu về tới cuối nguồn ở huyện Phú Tân.

5. Làm suy thoái hệ sinh thái tự nhiên còn lại
– Hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL đã góp phần không nhỏ trong việc xâm lấn vào những vùng sinh thái tự nhiên còn lại và có thể làm cho chúng suy thoái trong tương lai. Sau năm 1975, chủ trương của Việt Nam là biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại ở ÐBSCL thành ruộng lúa trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn lúa/năm trong kế hoạch ngủ niên 1975-1980. Chủ trương này đã phá hủy một số lớn vùng sinh thái tự nhiên như rừng tràm, đồng cỏ ngập nước, vùng trũng, và rừng ngập mặn ở ÐTM, TGLX, và rừng U Minh ở bán đảo Cà Mau. Chỉ trong vòng 20 năm, ruộng lúa ở ÐBSCL đã tăng gần 4 lần, với diện tích lên đến 1,1 triệu ha trong năm 1995. Một số ít vùng sinh thái tự nhiên còn lại, mặc dù được bảo vệ, đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các biện pháp trị thủy, bởi tình trạng ô nhiễm gia tăng, bởi các hoạt động khai thác bất hợp pháp, và bởi nguy cơ cháy rừng, nhất là trong mùa khô. Các vùng này đang suy thoái nghiêm trọng và có nguy cơ bị xóa sổ trong tương lai.

– Các vườn quốc gia Tràm Chim – Tam Nông ở Ðồng Tháp và Hòn Chông – Kiên Lương ở Kiên Giang là một thí dụ điển hình. Sau khi chiến tranh chấm dứt, đây là những vùng sinh thái tự nhiên mà hằng năm loại sếu đầu đỏ hiếm quý trên thế giới về tạm trú trong một thời gian. Nhưng số lượng sếu về hai vườn quốc gia này càng ngày càng giảm. Ở Kiên Giang, trước đây có hàng ngàn con, bây giờ chỉ còn vài trăm. Từ năm 2000, diện tích năn và đất ngập nước bị thay đổi. Những điểm sếu ăn cũng không còn nguyên như trước, có chỗ đào kinh, xẻ rạch, có chỗ giữ nước chống cháy, có nơi bị người dân xâm lấn và khai thác. Ở Ðồng Tháp còn bi đát hơn, chỉ còn vài chục; riêng năm nay, chỉ còn 17 con mà thôi. Sở dĩ sếu về ít là vì hệ sinh thái của hai vườn quốc gia này đã suy thoái và không còn thích hợp với đời sống của sếu.

– Ngoài các vùng sinh thái tự nhiên, hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái của toàn vùng ÐBSCL bao gồm thực vật, sinh vật, môi trường đất và nước. Việc xây dựng và điều hành hệ thống kinh thủy lợi trong vùng đất phèn gây hiện tượng xì phèn trong đất lẫn nước, khiến cây cỏ nhạy cảm với độ chua, tức pH, phải nhường chỗ cho cây cỏ chịu chua cao như tràm, năn, hoặc lát. Kết quả là độ đa dạng sinh học bị giảm. Trong những vùng trũng như ÐTM và TGLX, hệ thống thủy lợi làm cho mực nước ngập cao hơn, thời gian ngập kéo dài hơn, lượng phù sa mang theo lớn hơn là những nguyên nhân khiến cho hàng nghìn ha tràm chết hàng loạt. Ở rừng U Minh, hệ thống kinh thủy lợi làm nước khô cạn trong mùa khô gây nạn cháy rừng, khiến hàng ngàn ha rừng tràm bị thiêu hủy trong năm 2002. Hệ thống đê đập ngăn mặn có thể xóa sổ cây dừa nước trong những vùng ngọt hóa, vì loại cây này cần môi trường nước ngọt và nước mặn luân phiên nhau. Lục bình cũng là một vấn nạn trong kinh rạch không có đủ nước luân lưu, thí dụ như rạch Bảo Ðịnh ở thị xã Tân An và đoạn sông Vàm Cỏ Đông từ xã Long Thành Nam, huyện Hòa Thành đến xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu.

– Mỗi khi được hỏi, nông dân ÐBSCL cho biết, nhiều loại tôm cá cua trước đây thường thấy trong ruộng lúa hoặc ao hồ ở ÐBSCL nay không còn nữa. Hiện tượng này có thể do nhiều yếu tố, nhưng hệ thống thủy lợi hiện nay có lẽ là yếu tố quan trọng nhất. Trước hết, hệ thống kinh thủy lợi làm hạ mực nước trong các vùng trũng và có thể làm cho các vùng trũng này khô cạn. Những vùng trũng này chính là nơi cư trú và sinh sản của nhiều loại cá trong mùa khô. Thứ nhì, hệ thống đê ngăn lũ ngăn chận cá di chuyển từ vùng trũng trở lại kinh rạch trong mùa nước nổi, nhất là các loại cá trắng. Thứ ba, cá tôm không thể sống trong nước phèn có pH thấp. Hệ thống đê bao cũng ngăn chận sự di chuyển của cá tôm trong mùa nước nổi. Theo kết quả nghiên cứu của Trường Ðại học An Giang thì hệ thống đê bao không những ảnh hưởng đến thành phần một số loài cá tôm, đặc biệt, làm mất hẳn một số loại như tôm càng xanh, cá rô biển, và cá bống tượng, mà còn làm giảm kích thước của tôm cá đánh bắt được so với thời điểm chưa có đê bao.

– Một ảnh hưởng tai hại khác của hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL là đất đai bên trong đê bao không còn màu mỡ như trước, mà báo chí trong nước gọi là “hệ lụy đê bao”. Theo người dân ở ÐBSCL, đất bạc màu là vì không được bón phù sa do nước lũ mang về. Nhận xét này rất đúng, nhưng có một yếu tố khác quan trọng hơn, đó là hiện tượng xì phèn. Vì đất bên trong đê bao tiếp xúc với không khí lâu hơn nên phèn xì nhiều hơn; do đó, độ pH trong đất càng ngày càng thấp hơn. Ðộ pH thấp chẳng những làm giảm hoặc ngừng sự tăng trưởng của cây lúa mà còn có ảnh hưởng đến sự hấp thu chất đạm, và đây chính là nguyên nhân khiến cho năng suất lúa trong vùng có đê bao càng ngày càng giảm, mặc dù vẫn bón phân như trước. Theo một nghiên cứu của Khoa Nông nghiệp thuộc Trường Ðại học An Giang, khi đê bao hoàn tất thì; sau 2 năm, năng suất lúa giảm 7,2 tạ/ha trong vụ đông-xuân và 3,2 tạ/ha trong vụ hè- thu; sau 4 năm, năng suất lúa giảm 10,9 tạ/ha trong vụ đông-xuân và 2,4 tạ/ha trong vụ hè- thu; và sau 6 năm, năng suất lúa giảm 10,9 tạ/ha trong vụ đông-xuân và 3,9 tạ/ha trong vụ hè-thu.

– Một trong những ảnh hưởng tai hại nhất đối với môi trường nước là ngăn chận sự luân lưu của nó, nhất là ở vùng hạ nguồn và ven biển, cả bên trong lẫn bên ngoài hệ thống đê đập ngăn mặn, khiến cho nguồn nước bị ô nhiễm. Thí dụ điển hình là sông Ba Lai ở Bến Tre. Trước khi có cống đập Ba Lai, nước sông có thể thông thương dễ dàng ra biển, nên dòng nước trong xanh và tràn đầy tôm cá. Từ khi có cống đập Ba Lai, nước không thể luân lưu như trước nên bị ô nhiễm, tôm cá ngày càng ít đi, có nơi không còn.

– Việc điều hành hệ thống đê đập ngăn mặn cũng có thể làm cho môi trường nước bị xáo trộn và gây ảnh hưởng tai hại. Thí dụ như việc mở cống đập Ba Lai khiến nước mặn trong sông Ba Lai ở hạ nguồn cống bị nước ngọt làm loãng và gây ô nhiễm, khiến không thể làm muối, đánh cá, hoặc nuôi tôm. Hiện tượng nghêu chết hàng loạt ở bãi nghêu thuộc xã Bảo Thuận và An Thủy, huyện Ba Tri có lẽ cũng do việc mở cửa đập Ba Lai để bảo vệ cho đàn tôm bên trong, vì nước ngọt bị ô nhiễm tràn ra làm thay đổi môi trường nước gần các bãi nghêu.

– Sự gia tăng diện tích trồng lúa và dân số trong vùng ÐBSCL, do việc xây dựng hệ thống thủy lợi và chánh sách kinh tế mới, làm gia tăng số lượng chất ô nhiễm phóng thích vào môi trường. Theo một nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu phát triển ÐBSCL, sự gia tăng chất ô nhiễm phóng thích vào môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái vì nó có thể hủy diệt sinh vật, làm giảm sản phẩm sinh học, làm giảm sức đề kháng bệnh tật, và làm giảm độ đa dạng sinh học. Hơn nữa, hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL cũng là một yếu tố giúp các chất ô nhiễm tồn đọng lâu dài trong môi trường và do đó, gia tăng mức độ ô nhiễm của sinh vật. Ðiều này có thể dẫn đến việc tích lũy các chất độc hại (toxins) trong môi trường mà hậu quả là ÐBSCL dần đà sẽ bị nhiễm độc (poisoning).

Những vấn đề thủy lợi ở đồng bằng sông cửu long hiện nay (Phần 2), Nguồn: Nguyễn Minh Quang, P.E. – Tháng 9 năm 2006.

* Những vấn đề thủy lợi ở đồng bằng sông cửu long hiện nay (Phần 1).

* Những vấn đề thủy lợi ở đồng bằng sông cửu long hiện nay (Phần 3).

You may also like...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *