Đặc điểm sinh học hầu Cửa Sông Crassostrea rivularis

1. Vị trí phân loại
Theo hệ thống phân loại Thiel (1931) thì vị trí phân loại của hầu Cửa Sông như sau:
– Ngành động vật thân mềm: Mollusca

– Lớp hai mảnh vỏ: Bivalvia

– Bộ cơ lệch: Anisomyarya

– Họ hầu: Ostreidae

– Giống hầu: Crassostrea

– Loài hầu Cửa Sông: Crassostrea rivularis

2. Đặc tính phân loại
– Vỏ to, dầy, dài, chắc, biến đổi có khi gần hình tròn, hình bầu dục, hình tam giác… vỏ phải hơi phẳng dẹp và nhỏ hơn vỏ trái, mặt vỏ có nhiều lớp vẩy mỏng màu vàng nâu hay tím sẫm. Hầu 1 – 2 tuổi các tấm vẩy thường phẳng mỏng và giòn. Hầu càng nhiều tuổi các tấm vẩy càng dầy, chắc, mặt ngoài vỏ màu xám tím hoặc nâu. Mặt trong vỏ màu trắng, dây nề nâu tím đen.

– Vết cơ khép vỏ rất to, màu vàng nhạt hình dạng không nhất định, phần lớn hình quả trứng hay bầu dục nằm phía trong lưng, vỏ trái to dầy và lõm sâu. Mặt trong màu ngà.

3. Đặc điểm sinh học
a) Phân bố:
– Hầu Cửa Sông (Crassostrea rivularis) là loại hầu phân bố rất rộng rãi ở nước ta. Hầu hết các cửa sông có vật bám là thấy có hầu Cửa Sông, chúng thường hình thành những bãi hầu rất lớn có khi dài hàng chục cây số như ở sông Bạch Đằng, sông Chanh và các sông lân cận. Vì vậy hầu Cửa Sông là loại hầu chiếm sản lượng chủ yếu ở nước ta. Sản lượng hàng năm có thể tới hàng trăm tấn cả vỏ. Khai thác hầu Cửa Sông là nghề sống chủ yếu của nhân dân các bãi hầu.

– Trong các loài hầu nuôi trên thế giới, hầu Cửa Sông cùng với hầu ống là hai loại hầu lớn hơn cả, con to nhất của hầu Cửa Sông tới hơn 40cm. Hầu Cửa Sông sống trong vùng nước lợ, tính thích ứng với độ muối rộng, có khi sống được ở trong nước có độ muối từ 1 – 30‰ nhưng thích hợp nhất là 10 – 23‰. Chúng có thể phân bố từ tuyến triều cao cho tới độ sâu 10m, nhưng nhiều nhất và thường lớn nhất ở phạm vi 5 – 7m. Hiện tượng quần tập rất phổ biến, chúng thường kín vật bám và nhiều khi bám chồng chất lên nhau từng cụm lớn tua tủa như lưỡi mai. Có khi thiếu vật bám chúng bám lên các vỏ hầu đã chết, trên một vỏ hầu dài 15cm có tới 30 con bám, trung bình lớn từ 5 – 20cm. Vì vậy, ngư dân thường gọi bằng nhiều dị tên khác nhau, thí dụ như “hầu rừng” là loại bám chi chít dầy khắp rạn đá lớn, “hầu lỗ” là loại hầu bám trên các hòn đá, hầu “lưỡi mai”, “hầu rơi” loại bám trên các vỏ hầu thành cụm, “hầu bạ” to thường bám đơn độc.

b) Phương thức sống: ở giai đoạn ấu trùng, chúng sống phù du, ấu trùng hầu có khả năng bơi lội nhờ hoạt động của tiêm mao. Ở giai đoạn trưởng thành, hầu sống bám trên các giá thể (sống cố định) trong suốt đời sống của chúng.

c) Thức ăn và phương thức bắt mồi:
– Thức ăn của ấu trùng bao gồm vi khuẩn, sinh vật nhỏ, mùn bã hữu cơ, tảo sillic, trùng roi có kích thước dưới 10µm. Ấu trùng có thể sử dụng vật chất hoà tan trong nước và các hạt vật chất hữu cơ. Khi trưởng thành thức ăn của chúng chủ yếu là thực vật phù du và mùn bã hữu cơ. Các loài tảo thường gặp là tảo Silic như: Melosira, Coscinodiscus, Cyclotella, Skeletonema….

– Phương thức bắt mồi của hầu thụ động theo hình thức lọc. Cũng như các loài Bivavia khác, hầu bắt mồi trong quá trình hô hấp nhờ vào cấu tạo đặc biệt của mang. Khi hô hấp nước mang theo thức ăn đi qua bề mặt mang, các hạt thức ăn sẽ giữ lại ở mang nhờ các tiêm mao và dịch nhờn được tiết từ tiêm mao. Các hạt thức ăn có kích thước nhỏ sẽ được dịch nhờn của tiêm mao cuốn dần về phía miệng, còn các hạt thức ăn quá lớn tiêm mao không giữ được sẽ bị dòng nước cuốn đi khỏi bề mặt mang, sau đó được tập chung ở mép màng áo và bị màng áo đẩy ra ngoài. Mặc dù hầu bắt mồi thụ động nhưng với cách thức bắt mồi như vậy, chúng chỉ có thể chọn lọc theo kích thước thức ăn. Quá trình chọn lọc được thực hiện 4 lần theo phương thức trên: lần 1 xẩy ra trên bề mặt mang, lần thứ 2 xẩy ra trên đường vận chuyển, lần 3 xẩy ra trên xúc biện, lần thứ 4 xẩy ra tại manh nang tiêu hoá. Tại dạ dầy, thức ăn được tiêu hoá một phần nhờ các men như: Amylase, Lactase, Glipase, Maltase, Protease. Các thức ăn không thích hợp được đẩy xuống ruột và ra ngoài qua hậu môn.

– Các nhân tố tác động tới hoạt động bắt mồi của hầu là thuỷ triều, lượng thức ăn, các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ muối…).

d) Đặc điểm sinh trưởng:
– Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của hầu. Ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ ấm áp nên tốc độ sinh trưởng của hầu rất nhanh và quá trình sinh trưởng diễn ra quanh năm. Ở vùng ôn đới, quá trình quá trình sinh trưởng chỉ diễn ra vào mùa xuân – hè, còn mùa thu đông gần như không sinh trưởng. Sự sinh trưởng của hầu còn phụ thuộc vào mật độ, nếu mật độ hầu cao thì hầu chậm lớn.

– Tốc độ sinh trưởng của hầu cũng khác nhau và tuỳ theo vùng phân bố do điều kiện môi trường nước của từng vùng khác nhau và do đặc trưng riêng của từng loài (yếu tố di truyền). Một đặc điểm nổi bật của hầu vùng nhiệt đới là quá trình sinh trưởng nhanh trong 6 – 12 tháng đầu tiên và sau đó chậm dần.

e) Đặc điểm sinh sản:
– Hầu Cửa Sông là loài động vật đã phân tính rõ rệt con đực và con cái riêng biệt, không có trường hợp trứng và tinh trùng cùng hình thành trên một cá thể. Tuy vậy trong quá trình phát dục có sự biến tính, tỷ lệ đực cái thay đổi theo mùa vụ khác nhau theo từng địa điểm. Trong tự nhiên, tỷ lệ hầu cái là 40 – 68% và hầu đực chiếm từ 21 – 61% (trong các tháng 4 đến tháng 10). Tỷ lệ này giảm thấp từ 0 – 16% (hầu cái) và 38 – 90% (hầu đực) trong các tháng từ 11 đến tháng 4 năm sau. Hầu con có thể tham gia lần đầu rất sớm sau 6 – 7 tháng tuổi kích thước đạt 40 – 50mm là đã phát hiện thấy có sản phẩm sinh dục và có khả năng tham gia sinh sản lần đầu. Khi hầu bố mẹ tham gia sinh sản, trứng và tinh trùng được phóng vào môi trường nước, quá trình thụ tinh và phát triển của ấu trùng diễn ra trong nước. Trong quá trình sinh sản việc phóng tinh trùng kích thích hầu cái đẻ trứng. Sức sinh sản của hầu là rất lớn. Đó là sự thích nghi với điều kiện sống. Hầu đẻ trứng, thụ tinh ngoài, ấu trùng trải qua biến thái vì vậy quần đàn hầu thường đẻ rất nhiều trứng. Sức sinh sản này phụ thuộc rất nhiều vào kích thước cá thể. Cá thể càng lớn sức sinh sản càng cao. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng rất lớn tới sức sinh sản của hầu, nhiệt độ là yếu tố quan trọng và trực tiếp ảnh hưởng tới sức sinh sản. Nhiệt độ thích hợp cho sinh sản thường trong phạm vi 28 – 30o C. Tuổi không có ảnh hưởng tới sức sinh sản của nhóm hầu.

– Sau khi thụ tinh, trứng hình tròn đồng thời sinh ra một màng trong suốt, tế bào chất bắt đầu lưu động nhân tế bào tiêu biến. Một giờ sau thể cực thứ nhất và thể cực thứ 2 xuất hiện, sau đó trứng bắt đầu quá trình phân cắt, sau lần phân cắt thứ 6 thành 64 tế bào thì phôi bắt đầu bước vào các giai đoạn phát triển. Sau đó phôi tiếp tục phát triển thành ấu trùng bánh xe, ấu trùng có điểm mắt, ấu trùng chân bò và khi chuyển sang giai đoạn bám chúng hoàn toàn không còn khả năng bơi lội, hình dạng của chúng đã tương đối giống với hầu trưởng thành, chúng chỉ có khả năng bám một lần trong đời.

qua trinh phat trien phoi va au trung hau song

Đặc điểm sinh học của hầu Cửa Sông Crassostrea rivularis, Nguồn: Luận án T.S Lê Thị Hồng Minh – ĐH Nông nghiệp Hà Nội.

You may also like...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *